Điều 2 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã quy định nhiệm vụ của BLTTHS là “bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Nhằm bảo đảm các quyền cơ bản của tổ chức, cá nhân được bảo vệ và tôn trọng, BLTTHS cho phép giải quyết cả vấn đề ds liên quan đến tội phạm. Việc giải quyết vấn đề dstrong vahs là một trong những chế định quan trọng của luật tố tụng hình sự và được quy định là một trong những nguyên tắc cơ bản tại Điều 30 BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, trong lý luận cũng như thực tiễn, nguyên tắc “giải quyết vấn đề dstrong vahs” chưa thực sự được quan tâm đúng mực. Vì vậy, hôm nay Luật Bạch Long sẽ gửi tới quý vị một số ý kiến của mình về vấn “Nguyên tắc giải quyết vấn đề ds trong vụ án hình sự” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” để nghiên cứu.
ĐỌC THÊM:
Giải quyết vấn đề ds trong vụ án hình sự (p3)
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (p1)
Thủ tục giải thể doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành

Ảnh minh hoạ
2.2. Nguyên tắc “giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự” của BLTTHS năm 2015
Kế thừa tư tưởng, quan điểm của Bộ luật năm 2003, Điều 30 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc giải quyết vấn đề dstrong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dscó thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự”.
2.2.1. Giải quyết vấn đề dsđồng thời với việc giải quyết vụ án hình sự
Việc giải quyết vấn đề dstrong vụ án hình sự là việc xác định rõ quan hệ pháp luật giữa những người tham gia tố tụng, cụ thể là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và nhiệm vụ của chủ thể tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì vị trí của từng người tham gia tố tụng được quy định như sau:
- – Bị hại: Theo khoản 1 Điều 62, “bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.
- – Nguyên đơn dân sự: Theo khoản 1 Điều 63, “nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Như vậy, tư cách tham gia tố tụng của nguyên đơn dân sự đối với quá trình giải quyết vụ án chỉ xuất hiện khi họ có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự không đồng nghĩa với nguyên đơn dân sự trong vụ án dân sự. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, nhưng không phải người khởi kiện nào cũng bị thiệt hại và nếu có thiệt hại thì thiệt hại đó không phải là thiệt hại do tội phạm gây ra.
Nguyên đơn dân sự trong một số trường hợp có thể đồng thời là người bị hại và trong trường hợp này, Tòa án chỉ xác định tư cách tham gia tố tụng của họ là người bị hại mà không cần phải xác định họ là nguyên đơn dân sự nữa vì quyền và nghĩa vụ của người bị hại bao hàm cả quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự.
- – Bị đơn dân sự: Theo khoản 1 Điều 64, “bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại”.
Tương tự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự không đồng nghĩa với bị đơn dân sự trong vụ án dân sự. Bị đơn dân sự trong vụ án dân sự là người bị khởi kiện, nhưng không phải người bị khởi kiện nào cũng phải bồi thường thiệt hại mà việc có phải bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn hay không còn tuỳ thuộc vào quyết định của Tòa án. Bị đơn dân sự trong vụ án hình sự buộc phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và do cơ quan tiến hành tố tụng xác định, không phụ thuộc vào việc nguyên đơn dân sự có khởi kiện hay không.
- – Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Theo khoản 1 Điều 65, “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”.
Nghiên cứu kỹ về người tham gia tố tụng khi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự để hiểu rõ bản chất của từng loại người nhằm xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của họ trong vụ án sẽ góp phần vào việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một hoạt động tố tụng được các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm xác định rõ trách nhiệm dân sự phát sinh từ hành vi phạm tội. Nhiệm vụ của chủ thể tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chính là việc xác minh, làm rõ vấn đề trách nhiệm dân sự trong vụ án, được thực hiện thông qua việc tiến hành các hoạt động sau:
- Thứ nhất, xác định được các mối quan hệ có liên quan đến vấn đề dân sự cần giải quyết là những mối quan hệ nào trong các mối quan hệ sau: mối quan hệ về bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản bị xâm phạm; mối quan hệ về đòi tài sản; mối quan hệ về đòi bồi thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy hoại…
- Thứ hai, xác định những người tham gia tố tụng gồm những ai, tư cách tham gia tố tụng của họ như thế nào.
- Thứ ba, xác định nội dung của các mối quan hệ có liên quan đến vấn đề dân sự cần giải quyết như: xác định mức độ thiệt hại đã xảy ra, mức độ lỗi của các chủ thể tham gia tố tụng… để từ đó có thể xác định đúng mức bồi thường thiệt hại.
Các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tiến hành điều tra, xác minh để làm rõ về những vấn đề nêu trên và đưa ra hướng giải quyết đối với toàn bộ vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
BLTTHS quy định việc giải quyết vấn đề dân sự được tiến hành đồng thời với việc giải quyết phần trách nhiệm hình sự của vụ án là một giải pháp hợp lý vì đối với người bị thiệt hại, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ thuận tiện hơn, họ sẽ mạnh dạn hơn khi yêu cầu sự can thiệp của Tòa án, điều này sẽ giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng có điều kiện phát hiện được vi phạm. Bên cạnh đó, người bị thiệt hại cũng có thể sử dụng những chứng cứ mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã thu thập được để phục vụ cho việc giải quyết vấn đề dân sự. Hơn nữa, việc cùng giải quyết cả vấn đề dân sự và hình sự trong cùng một vụ án sẽ tiết kiệm hơn vì chỉ có một Tòa án giải quyết cả hai loại vấn đề.
2.2.2. Tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Khi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, Tòa án cần phải nghiên cứu, vận dụng cả những quy định của pháp luật về dân sự. Việc phải nghiên cứu áp dụng cả hai loại quy phạm pháp luật dân sự và hình sự là một khó khăn với Tòa án, đặc biệt là đối với những vụ án phức tạp. Chính vì vậy, BLTTHS đã quy định việc tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết riêng bằng một vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự.
Có thể thấy, căn cứ chung để thực hiện việc tách phần dân sự trong vụ án hình sự theo quy định tại Điều 30 BLTTHS năm 2015 chính là việc “chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự”. Hiện nay vẫn chưa có quy định hướng dẫn BLTTHS năm 2015, tuy nhiên, có thể tham khảo Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự thì các căn cứ để tách phần dân sự trong vụ án hình sự là: “…phần dân sự được tách không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo… chưa tìm được, chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự; người bị hại và nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu; người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự đã có yêu cầu, nhưng không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình…; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa và sự vắng mặt của họ thật sự trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự”. Bên cạnh đó, Công văn còn nêu rõ việc tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự tại phiên tòa sơ thẩm, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm và tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
Liên quan đến việc tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, khoản 2 Điều 292 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trường hợp xét thấy sự vắng mặt của bị hại, đương sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết bồi thường thiệt hại thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo quy định của pháp luật”.
Từ những quy định trên, liệu các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án có quyền ra quyết định tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự không hay việc tách vụ án chỉ được thực hiện bởi Hội đồng xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm? Những người tham gia tố tụng có được quyền đề nghị tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự không? Trên thực tế, trong các vụ án hình sự có phát sinh vấn đề trách nhiệm dân sự, ở giai đoạn điều tra, truy tố, các cơ quan tiến hành tố tụng không đặt ra vấn đề tách phần dân sự mà chỉ đến giai đoạn xét xử, Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm mới quyết định tách phần dân sự tại quyết định của bản án sơ thẩm, phúc thẩm hay giám đốc thẩm.
Mặc dù còn có những tồn tại cần khắc phục, song việc quy định nguyên tắc “giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự” theo quy định tại Điều 30 BLTTHS năm 2015 đã góp phần tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc giải quyết vấn đề ds trong vụ án hình sự được nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm về mặt thời gian, tiền bạc, đồng thời bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Trên đây là những ý kiến của Luật Bạch Long, Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:
Công ty Luật TNHH Bạch Long
Địa chỉ: số 92 Dương Quảng Hàm, Phường Quan Hoa, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: 0975.866.929
Email: luatbachlong@gmail.com
Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0975.866.929 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác!