Bảo vệ quyền phụ nữ trong quan hệ hôn nhân gia đình cũng như quyền làm mẹ của các bà mẹ được thể hiện trong nhiều chế định của Luật HN&GĐ năm 2014.
1.Bảo vệ quyền phụ nữ trong chế độ kết hôn
a. Về độ tuổi kết hôn.
Trong chế định kết hôn, bảo vệ quyền của phụ nữ trước hết được thể hiện trong quy định về độ tuổi kết hôn. Luật HN&GĐ 2014 quy định tuổi kết hôn tối thiểu đối với nữ là đủ 18 tuổi (trước đây là từ 18 tuổi) là đảm bảo cho sức khỏe của người phụ nữ khi làm mẹ. Nếu tuổi kết hôn quá sớm thì cơ thể phái nữ có thể chưa phát triển hoàn thiện, khi mang thai, sinh con thì ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của cả mẹ và con. Đây cũng là chế định giúp các bà mẹ thực hiện chức năng cao quý của mình. Bên cạnh đó, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi thực hiện các giao dịch dân sự cần có người đại diện, trong khi đó về mặt lý luận thì không thể đại diện trong việc kết hôn. Nếu chưa đủ 18 tuổi thì người phụ nữ cũng bị hạn chế việc tham gia các giao dịch như bất động sản, tín dụng (đòi hỏi chủ thể giao dịch phải là người đủ 18 tuổi trở lên). Như vậy, quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu đối với nữ là đủ 18 tuổi nhằm bảo vệ sức khỏe cho phụ nữ, đảm bảo phụ nữ có thể tự mình thực hiện được các quyền khi xác lập quan hệ hôn nhân, đảm bảo phụ nữ được thể hiện sự tự nguyện của mình khi kết hôn. Đây là quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ khi xác lập quan hệ vợ chồng.
b. Về sự tự nguyện khi kết hôn.
Quy định về sự tự nguyện của nam nữ khi kết hôn cũng là bảo vệ quyền của người phụ nữ. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định” (Điểm b Khoản 1 Điều 8). Tự nguyện kết hôn là không có hành vi cưỡng ép hoặc lừa dối để kết hôn đồng thời phải có sự nhất trí giữa các bên. Ý chí tự nguyện của nam nữ là điều kiện cần thiết quyết định tính hợp pháp của hôn nhân. Quy định này đã góp phần bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, được kết hôn theo ý chí tự nguyện của mình, có quyền từ chối hoặc lựa chọn kết hôn.
c. Về đảm bảo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.
Pháp luật HN&GĐ thời phong kiến và thời kỳ Pháp thuộc duy trì chế độ đa thê, bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông trong gia đình. Chế độ đa thê bị xóa bỏ và thay vào đó là hôn nhân một vợ, một chồng, tiến bộ, bình đẳng. Xóa bỏ chế độ đa thê một mặt khẳng định quyền bình đẳng giữu nam và nữ, mặt khác là bảo vệ quyền của người phụ nữ.
2. Bảo vệ quyền phụ nữ trong chế định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
a. Trong quan hệ nhân thân của vợ chồng.
* Về quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng: Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan” và “Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng quy định tại Điều luật này, Bộ luật dân sư và các luật khác có liên quan được tôn trọng và bảo vệ” (điều 17 và 18). Trong hệ thống pháp luật dưới chế độ cũ đều thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa nam và nữ, các quyền lợi về nhân thân tài sản của người vợ đều phụ thuộc vào người chồng “phu xướng vợ tùy”, còn trong Luật HN&GĐ 2014 thì phụ nữ với tư cách là người vợ được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự, thân thể, uy tín. Mọi hành vi bạo lực đối với phụ nữ đều vi phạm pháp luật và bị xử lý nghiêm minh.
* Quyền được đại diện của người phụ nữ trong quan hệ vợ chồng: Pháp luật quy định vợ chồng có quyền đại diện cho nhau xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch hoặc có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch theo quy định tại Điều 14 và khoản 1 Điều 25 Luật HN&GĐ 2014. Quy định này đã khẳng định địa vị pháp lý và năng lực hành vi của người vợ, nó trái ngược với địa vị của người phụ nữ trong pháp luật phong kiến (vợ làm gì cũng phải được chồng cho phép hoặc đại diện).
Như vậy, quy định quyền nhân thân của vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 2014 thể hiện nguyên tắc bình đẳng, bảo vệ người phụ nữ trong quan hệ hôn nhân gia đình, ngăn chặn tình trạng bạo lực giữa vợ và chồng mà nạn nhân chủ yếu là người vợ.
b. Trong quan hệ tài sản của vợ chồng.
Luật HN&GĐ 2014 quy định vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Đây là điểm mới của Luật HN&GĐ 2014 so với các Luật trước đó. Theo đó nếu hai bên lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì phải lập văn bản thỏa thuận trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chức hoặc chứng thực (Điều 47). Quy định chế độ tài sản theo thỏa thuận phần nào thể hiện sự tôn trọng các quyền cá nhân, trong đó có quyền của người phụ nữ trong việc định đoạt tài sản hôn nhân.
Từ Điều 33 đến Điều 46 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật thể hiện quyền bình đẳng giữa vợ và chồng về quyền sở hữu đối với tài sản chung và đối với tài sản riêng của mỗi bên.
Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong các trường hợp sau đây: 1) Bất động sản, 2) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; 3) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập cho gia đình. Quy định này nhằm ngăn chặn tình trạng khá phổ biến là người chồng tự ý định đoạt tài sản chung của vợ chồng gây ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của người vợ.
Quy định tại Điều 34 Luật HN&GD năm 2014 về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung của vợ chồng cũng thể hiện việc bảo vệ quyền của người phụ nữ về tài sản trong hôn nhân, theo đó: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác”. Quy định này nhằm xóa bỏ tình trạng tài sản chung vợ chồng là nhà ở, quyền sử dụng đất nhưng trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu, Giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ ghi tên người chồng (theo khảo sát là gần 70% Giấy chứng nhân ghi tên người chồng). Tình trạng này hạn chế quyền tiếp cận nguồn lực của vợ và rất bất lợi cho người vợ trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Như vậy, quy định vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung là khẳng định vị thế của người phụ nữ trong gia đình, bảo vệ quyền tài sản của người phụ nữ.
Bên cạnh sở hữu chung, Luật HON&GĐ 2014 còn quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Quy định này dựa trên Hiến pháp 2013 ghi nhận quyền sở hữu tài sản của cá nhân. Do vậy, phụ nữ với tư cách là người vợ sau khi kết hôn nhưng vẫn với tư cách là cá nhân nên có quyền sở hữu tài sản riêng. Quy định này giúp cho phụ nữ có quyền độc lập về tài sản, có quyền quyết định tài sản của họ có trước khi kết hôn hoặc được tặng cho, thừa kế trong thời kỳ hôn nhân. Khi đã có tài sản, độc lập và tự chủ về kinh tế thì người phụ nữ có thể tự chủ trong cuộc sống, không bị phụ thuộc vào chồng.
3. Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong chế định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con.
a. Trong việc xác định cha, mẹ, con.
Trước hết, bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ đối với con phải thể hiện trong việc thực hiện quyền của người mẹ, mà vấn đề quan trọng trước tiên là xác định họ là mẹ của những đứa trẻ do họ sinh ra. Khi người phụ nữ sinh con thì họ được xác định là mẹ của đứa trẻ, trừ trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Pháp luật hiện hành bảo vệ quyền của người mẹ khi người phụ nữ sinh con không phụ thuộc vào việc họ có tồn tại hôn nhân hay là mẹ đơn thân khi sinh con. Do đó, khi họ đang có chồng mà có thai hoặc sinh con thì người chồng là cha của đứa trẻ. Người chồng sẽ có quyền và nghĩa vụ cùng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Quy định này thể hiện nghĩa vụ chia sẻ việc chăm sóc, nuôi dạy con giữa vợ và chồng nhằm san bớt gánh nặng của người phụ nữ mà bao đời nay họ phải chịu vì những định kiến về giới.
Quyền làm mẹ là quyền thiêng liêng và cao quý nhất của người phụ nữ. Quyền đó trước hết xuất phát từ chức năng sinh học tự nhiên của người phụ nữ mà không ai có thể thay thế được. Nhờ chức năng cao quý đó của người phụ nữ mà thế giới luôn tồn tại, phát triển và đổi mới. Vì lẽ đó, vai trò của người mẹ luôn được thừa nhận và tôn trọng. Trên cơ sở Hiến pháp 2013, Luật HN&GĐ năm 2014 đã có quy định bảo vệ quyền làm mẹ của người phụ nữ tại Điều 2: “Nhà nước, xã hội có trách nhiệm… giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ”. Như vậy quyền làm mẹ của người phụ nữ được thực hiện bằng các phương thức cơ bản, đó là quyền sinh con, nhận con nuôi mà không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của họ, bên cạnh đó cặp vợ chồng vô sinh còn có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Các phương thức thực hiện quyền làm mẹ được pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện về cả mặt pháp lý và về mặt thực tế.
b. Trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con.
Với tư cách là mẹ, người phụ nữ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với con của mình mà không một cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào có quyền ngăn cản. Quyền của người mẹ ngang bằng với quyền của người cha. Người mẹ có quyền được yêu thương con, chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức. Người mẹ có quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Khi người phụ nữ, người mẹ già yếu ốm đau cũng có quyền được con chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Con cháu có nghĩa vụ tôn trọng các quyền nhân thân và quyền tài sản của mẹ, của bà. Quy định này nhằm ngăn chặn tình trạng bạo lực của con cháu đối với cha, mẹ, ông, bà mà nạn nhân phần lớn là bà, là người mẹ.
Đọc thêm:
Người vợ khi mang thai có được quyền yêu cầu ly hôn không?
Xác định tài sản chung, tài sản riêng và các khoản nợ của vợ chồng khi ly hôn
Kết hôn với nữ 17 tuổi có vi phạm pháp luật không ?
4. Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong chế định ly hôn
a. Quyền yêu cầu ly hôn.
Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn…” đã thể hiện sự tự do ý chí của vợ, chồng khi ly hôn. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thực tế hiện nay ở Việt Nam. Tình trạng bạo lực gia đình ngày càng phổ biên và nghiêm trọng, mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ. Khi cuộc sống chung không thể tiếp tục, khi người phụ nữ phải chịu cảnh đòn roi thì họ có quyền yêu cầu ly hôn để giải phóng khỏi cuộc hôn nhân mang đến cho họ đau khổ, bất hạnh.
Bảo vệ quyền phụ nữ, quyền của bà mẹ, giúp đỡ bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ, pháp luật hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng: “Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con, hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi” (Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ 2014). Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi, đã quy định điều kiện hạn chế quyền ly hôn đối với người chồng, mà không hạn chế đối với người vợ. Chúng ta cần hiểu, trong quan hệ vợ chồng, việc sinh đẻ không đơn thuần là việc của riêng người vợ mà là việc chung, là trách nhiệm chung của cả hai vợ chồng. Mặt khác, sinh đẻ là chức năng xã hội của gia đình. Vì vậy, phải thấy được trách nhiệm chung đó để giải quyết ly hôn cho thỏa đáng, hợp lý, nhằm đảm bảo quyền của phụ nữ và con cái, bảo vệ lợi ích của gia đình và xã hội. Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng không phụ thuộc vào việc thai nhi mà người vợ đang mang hoặc đứa trẻ mà người vợ đang nuôi có phải là con của người chồng hay không.
b. Căn cứ ly hôn.
Về căn cứ giải quyết ly hôn, Điều 56 quy định về ly hôn do một bên yêu cầu: Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại tòa án không thành thì tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định rất rõ “bạo lực gia đình” là cơ sở để xác định tình trạng quan hệ vợ chồng, tình trạng đó là căn cứ để Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn. Vì vậy, căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 góp phần giải phóng phụ nữ khỏi những cuộc hôn nhân bạo lực.
c. Trong quy định về chia tài sản khi ly hôn.
Trong trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì khi ly hôn tài sản chung được giải quyết theo sự thỏa thuận của vợ chồng trong văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản. Trong trường hợp vợ chồng theo chế độ tài sản Luật định thì khi ly hôn áp dụng nguyên tắc chia tài sản chung được quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014. Một trong các nguyên tắc đó là khi chia tài sản chung của vợ chồng phải xem xét công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Khi xác định công sức đóng góp của vợ, chồng thì “lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập” (điểm b Khoản 2 Điều 59). Có thể nói, quy định này góp phần bảo vệ quyền của phụ nữ về tài sản khi ly hôn. Thực tế cho thấy, trong gia đình Việt Nam qua những năm gần đây, xuất phát từ định kiến về giới và phân công lao động theo giới nên người vợ phải dành nhiều thời gian, công sức cho lao động trong gia đình. Vì vậy, họ đóng góp công sức để trực tiếp tạo ra tài sản chung là không nhiều. Khi ly hôn, nếu chỉ đơn thuần xem xét công sức đóng góp của họ vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung thì họ sẽ bị thiệt thòi rất lớn.
Bên cạnh đó, Khoản 5 Điều 9 Luật HN&GĐ năm 2014 còn quy định khi chia tài sản chung phải “bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Hoặc trong trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn, “nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận những không đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn” (Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014). Các quy định trên đã trực tiếp chỉ ra rằng quyền lợi chính đáng của phụ nữ phải được tôn trọng khi vợ chồng ly hôn. Tuy nhiên, bảo vệ quyền phụ nữ trong việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn phải được hiểu đúng và áp dụng chính xác.
Đồng thời, Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng bảo vệ cho quyền lợi của người vợ khi ly hôn mà sống chung với gia đình nhà chồng, tài sản của vợ chồng thuộc khối tài sản chung của gia đình không xác định được. Xuất phát từ tập quán của người Việt Nam, đa số phụ nữ sau khi kết hôn về chung sống với gia đình chồng, nhiều trường hợp họ đóng góp công sức đáng kể trong việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản cho gia đình nhưng khi ly hôn họ lại không nhận được phần tài sản tương xứng với công sức đóng góp.
Chúng ta thấy rằng, phụ nữ và đặc biệt là phụ nữ ly hôn thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương do những quan điểm còn sai của xã hội. Vì vậy, họ cần được bảo vệ. Điều này thể hiện tính nhân đạo và bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta bởi sau ly hôn, người phụ nữ thường gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống hơn so với nam giới. Quy định chia tài sản chung khi ly hôn phải đảm bảo quyền lợi của vợ để đảm bảo hậu ly hôn họ có một cuộc sống ổn định.
5. Bảo vệ quyền của người phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài.
– Quyền tự do kết hôn, xác lập quan hệ vợ chồng của người phụ nữ.
– Quyền đối với quốc tịch khi kết hôn với người nước ngoài.
– Có quy định chặt chẽ về thủ tục kết hôn với người nước ngoài; về việc từ chối đăng ký kết hôn; về vấn đề hỗ trợ kết hôn với người nước ngoài; nhất là về chế tài khi có hành vi xâm phạm quyền của người phụ nữ khi kết hôn với người nước ngoài: nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của nữ công dân Việt Nam trước các hành vi lợi dụng kết hôn có yếu tố nước ngoài để trục lợi.
6. Bảo vệ thiên chức làm mẹ của người phụ nữ.
Đảm bảo để người phụ nữ thực hiện thiên chức làm mẹ, pháp luật ghi nhận và đảm bảo cho người phụ nữ được thực hiện quyền sinh con và nuôi con nuôi.
a. Quyền sinh con
Quyền sinh con là quyền gắn liền với chức năng sinh đẻ của người phụ nữ. Theo đó, người phụ nữ có quyền mang thai và sinh con. Pháp luật ghi nhận và bảo vệ quyền mnag thai và sinh con của người phụ nữ bằng các quy định về vấn đề xác định cha, mẹ, con. Đối với tường hợp người phụ nữ có quan hệ hôn nhân hợp pháp mà sinh con, thì khi có tranh chấp về vấn đề này, áp dụng nguyên tắc suy đoán để xác định cha cho đứa trẻ tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2914. Việc ghi nhận nguyên tắc suy đoán này thể hiện những giá trị mang tính nhân văn sâu sắc về bảo vệ thiên chức làm mẹ của người phụ nữ. Việc đứa trẻ sinh ra mà không được “cha thừa nhận” và pháp luật cũng không đảm bảo cho nó quyền “xác nhận cha”, đó chính là sự chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ.
Việc bảo đảm thiên chức làm mẹ của người phụ nữ còn được thể hiện ở quy định: “con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”. Đây là quy định phản ánh một thực tế còn tồn tại vì hậu quả của quan niệm phong kiến, người phụ nữ thường bị chịu thiệt thòi và thậm chí là mang tiếng xấu vì “ăn cơm trước kẻng”. Việc pháp luật ghi nhận như vậy chính là đối xử công bằng với phụ nữ, tránh trường hợp người phụ nữ sau khi sinh con, bị người chồng bỏ mặc vợ gánh chịu những ruồng rẫy từ phía gia đình và dòng họ, hạn chế những tranh chấp không đáng có cũng như những tủi nhục mà người phụ nữ phải gánh chịu từ dư luận xã hội. Pháp luật cũng quy định: “Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con phải có chứng cứ và được Tòa án xác định”.
Thiên chức làm mẹ của người phụ nữ còn được đảm bảo qua việc Luật HN&GĐ năm 2014 ghi nhận người phụ nữ quyền sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cho thấy nỗ lực giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt các chức năng cao quý của người mẹ của nhà nước, xã hội.
b. Quyền nhận nuôi con nuôi.
Bảo vệ, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt thiên chức của mình còn được thể hiện qua việc ghi nhận phụ nữ có quyền nhận nuôi con nuôi (quy định cụ thể tại Luật Nuôi con nuôi). Đây là quy định chứa đựng ý nghĩa xa hội sâu sắc, bởi trên thực tế, không phải người phụ nữ nào cũng có thể làm mẹ bằng việc sinh con một cách tự nhiên hay lựa chọn việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Đây là một căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con, đảm bảo một cách đầy đủ nhất để người phụ nữ thực hiện thiên chức làm mẹ của mình.
Thiên chức làm mẹ của người phụ nữ gắn liền với quá trình mang thai, chăm sóc, nuôi dưỡng con. Vì lẽ đó, để đảm bảo thiên chức này, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy định: “Chồng không có quyền ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi” (Khoản 3 Điều 51).
Trên đây là quan điểm của Luật Bạch Long . Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:
Công ty Luật TNHH Bạch Long
Địa chỉ: Số 92 Phố Dương Quảng Hàm, Phường Quan Hoa, Quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0975.866.929
Email: luatbachlong@gmail.com
Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0975.866.929 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.