Qua hai phần chúng ta đã có những cái nhìn nhận và hiểu về những Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm. Trong phần 3 này luật Bạch Long sẽ đánh giá những quy định này để từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện những quy định này. Nếu bạn chưa đọc phần 1 và 2 của bài viết này thì chúng tôi sẽ để đường dẫn ở phía dưới đây.
ĐỌC THÊM:
Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự.
Đánh giá quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm
-
Những ưu điểm đã có
Thứ nhất, bổ sung quy định về trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện tại khoản 2 Điều 217 BLTTDS 2015. Cụ thể: Đã quy định rõ ràng nguyên đơn “rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện” thay vì không quy định rõ như trước là rút toàn bộ hay rút một phần. Việc quy định rõ ràng tại BLTTDS 2015 như vậy đã làm rõ ràng quyền và rạch ròi nghĩa vụ của Tòa án. Như vậy, quy định này vừa có lợi cho nguyên đơn cũng vừa có lợi cho Tòa án khi các quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn.
Thứ hai, bố sung quy định về thời hạn Tòa án phải gửi quyết định đình chỉ giải quyết VADS (khoản 3 Điều 217 BLTTDS 2015). Tại Điều 192 BLTTDS 2004 chưa quy định nội dung về thời hạn gửi quyết định của Tòa án khiến đương sự, cơ quan, tổ chức không biết thời hạn Tòa án phải gửi quyết định trong khoảng thời gian bao lâu, đôi khi họ phải chờ quyết định trong khoảng thời gian dài, mặt khác còn tạo điều kiện cho Tòa án trì hoãn việc gửi quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Nhưng khi khoản 3 Điều 217 BLTTDS 2015 bổ sung “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự,…”, đã đáp ứng được quyền của đương sự, cơ quan, tổ chức và buộc Tòa án phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
Thứ ba, bố sung quy định tại khoản 4 Điều 217 BLTTDS 2015. Trong trường hợp đặc biệt được quy định tại khoản 4 Điều 217 BLTTDS 2915 đối với vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đôc thẩm, tái thẩm thì thủ tục để Tòa án ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là: Ngoài nội dung như quyết định đình chỉ giải quyết VADS tại cấp sơ thẩm thông thường, Tòa án đồng thời phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có); trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì việc đình chỉ giải quyết vụa sn phải có sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, ghĩa vụ liên quan. Đay là một quy định hoàn toàn mới của BLTTDS 2015 so với BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
-
Những hạn chế
Thứ nhất, đối với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015. Căn cứ quy định tại điều này có cách hiểu không thống nhất với quy định tại khoản 2 Điều 227. Có thể hiểu quy định tại khoản 2 Điều 217 BLTTDS 2015 là nếu tại phiên tòa, nguyên đơn lần đầu có mặt, lần thứ hai vắng mặt thì vẫn phải hoãn phiên tòa. Đến phiên tòa lần thứ ba, nếu nguyên đơn vắng mặt không có đơn xét xử vắng mặt hoặc không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan thì Tòa án mới được ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Nhưng tại Điều 227 BLTTDS 2015 lại quy định “Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai” để làm căn cứ quyết định đình chỉ giải quyết VADS. Nếu theo quy định tại Điều 227 BLTTDS 2015 thì chỉ cần Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà nguyên đơn vắng mặt là Tòa ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS kể cả lần triệu tập thứ nhất nguyên đơn có mặt.
Thứ hai, đối với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015. Tại giải đáp số 01/GĐ-TANDTC đã giải đáp một số vấn đề vướng mắc điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015 trong quá trình thi hành. Tuy nhiên, trong trường hợp đương sự là người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không đủ điều kiện để nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản để quyết định đình chỉ giải quyết vụ án sẽ ảnh hưởng tới quyền của đương sự.
Thứ ba, đối với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 217 BLTTDS 2015. Theo như quy định nếu bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố thì Tòa án ra quyết định “Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện”. Vậy có thể coi quyết định “Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện” như là “Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án” được hay không? Liệu rằng quyết định này có thể bị kháng cáo, kháng nghị và nguyên đơn có quyền khởi kiện lại như quyết định “đình chỉ giải quyết vụ án” hay sẽ có hình thức sẽ có quy định khác. Ngoài ra, tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng chi phí thẩm định, định giá lại tài sản mà nguyên đơn đã nộp có được trả lại hay sẽ có hình thức giải quyết khác. Và rất nhiều yếu tố cần được xem xét trong vấn đề này.
Đánh giá quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp phúc thẩm
-
Những thành tựu
Thứ nhất, bổ sung trường hợp rút một phần kháng cáo làm căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ VADS. Cụ thể: điểm c khoản 1 Điều 289 BLTTDS 2015 “Người kháng cáo rút một phần kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị”. Trước kia, tại BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011) chưa quy định về trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo và Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị. Vì vậy, khi bổ sung điểm này vào BLTTDS 2015 đã tạo nên hành lang pháp lý vững chắc, người kháng cáo và Viện kiểm sát đều có lợi khi thực hiện quyền của mình.
Thứ hai, bố sung quy định về hiệu lực thi hành và gửi ngay quyết định đình chỉ giải quyết VADS (khoản 4 Điều 289 BLTTDS 2015). Điều 260 BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011) không quy định về hiệu lực thi hành và yêu cầu phải gửi ngay cho đương sự, cơ quan tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp. Đây là quy định mới trong nội dung đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, đã được bổ sung và phát triển từ nền tảng những quy định tại BLTTDS 2004.
-
Những hạn chế
Đối với quy định tại khoản 1 Điều 299 BLTTDS 2015. Quy định trước khi mở phiên tòa hoặc phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì HĐXX phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng hay không và tùy từng trường hợp mà giải quyết. Nếu bị đơn không đồng ý việc rút đơn thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn; bị đơn đồng ý việc rút đơn thì Tòa án chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. HĐXX phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trường hợp xảy ra là nguyên đơn rút đơn, bị đơn cũng đồng ý rút đơn nhưng trogn vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, mà người này lại có yêu cầu độc lập và giữ nguyên yêu cầu độc lập thì trường hợp này, Tòa án sẽ áp dụng quy định pháp luật nào để giải quyết? và các thức giải quyết sẽ như thế nào. Do đó, cần phải có quy định hướng dẫn đối với trường hợp nêu trên.
Trên đây là những ý kiến của Luật Bạch Long về một số quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự hiện hành về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm (p3). Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:
Công ty Luật TNHH Bạch Long
Địa chỉ: số 92 Dương Quảng Hàm, Phường Quan Hoa, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: 0975.866.929
Email: luatbachlong@gmail.com