1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời

Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp toà án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không the khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.

Trong quá trình nhận đơn, thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có thể phải ra quyết định áp dụng một hoặc một vài biện pháp cần thiết nhằm đáp ứng một hoặc một số yêu cầu cấp bách của đương sự có liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự mà Tòa án sẽ thụ lý hoặc đang trong quá trình giải quyết. Vì nếu không áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể dẫn đến những khó khăn, thiệt hại cho đương sự hoặc khó khăn, trỏ ngại cho việc giải quyết đúng đắn vụ án và quá trình thi hành án.

Các biện pháp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tài Điều 68 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 như sau

“1. Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.

2. Tạm dừng việc thực hiện hành vi hành chính.

3. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.”

2. Đặc điểm của biện pháp khẩn cấp tạm thời

Biện pháp khẩn cấp tạm thời có những đặc điểm khác với các biện pháp khác mà Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án, đó là:

– Biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trước khi thụ lý vụ việc dân sự, cốn tất cả các biện pháp, quyết định khác chỉ có thể được áp dụng sau khi Tòa án đã thụ lý.

– Biện pháp khẩn cấp tạm thời luôn mang trong nó hai tính chất, đó là tính khẩn cấp và tính tạm thời.

Tính khẩn cấp của biện pháp này thể hiện ở chỗ Tòa án phải ra quyết định áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời và được thực hiện ngay sau khi Tòa án ra quyết định áp dụng, nếu không sẽ không còn ý nghĩa trên thực tế.

Tính chất tạm thời của biện pháp này thể hiện ỏ chỗ: Nó không phải là quyết định cuối cùng vể giải quyết vụ việc dân sự. Nó chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nếu lý do của việc áp dụng không còn nữa thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định này ngay trong quá trình chuẩn bị xét xử, hoặc khi Tòa án ra quyết định cuối cùng sẽ phải có phán quyết về biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án đã áp dụng.

Vì vậy, có thể định nghĩa biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng trước khi thụ lý hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tranh chấp, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.

Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể gây ra thiệt hại về quyền và lợi ích cho bên bị áp dụng và người khác. Do đó, khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải rất thận trọng, phải thực hiện đúng quy định của pháp luật.

3. Mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có ý nghĩa gì?

Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vối mục đích giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm việc thi hành án. Do đó, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp và nhu cầu cấp bách của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn định được cuộc sống của bản thân cũng như của những ngưồi sống phụ thuộc vào họ.

Mặt khác, do những xung đột về lợi ích, nên có những vụ việc đương sự đã tẩu tán tài sản, hủy hoại chứng cứ nhằm gây khó khăn cho phía đương sự bên kia trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời tạo ra các trở ngại cho Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Vì thế, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp này góp phần ngăn chặn các hành vi sai trái, bảo vệ bằng chứng, giữ nguyên được giá tri chứng minh của chứng cứ, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự được chính xác. Khi lý do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn thì Tòa án có quyển hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nó thể hiện sự linh hoạt trong tố tụng sẽ góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của công dân.

Các Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tê, lao động chỉ cho phép Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi đã thụ lý vụ án. Bộ luật tố tụng dân sự đã có những quy định mới cho phép Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi thụ lý vụ việc dân sự. Sự đổi mới này trong công tác lập pháp tạo điều kiện cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích của đương sự được kịp thời, có hiệu quả hơn, phù hợp với yêu cầu của thực tê cuộc sống.

Đọc thêm: 

Thời hạn kháng cáo và kháng cáo quá hạn

Bình luận quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự về kháng nghị giám đốc thẩm (p3)

Tái thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự

4. Thủ tục tiến hành biện pháp khẩn cấp tạm thời

Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015

“1. Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền kèm theo tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
2. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm viết đơn;
b) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
c) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
d) Tóm tắt nội dung quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc hành vi hành chính bị khởi kiện;
đ) Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
e) Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.
3. Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 1 Điều 66 của Luật này, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét, giải quyết. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận đơn yêu cầu, Thẩm phán phải ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu, Viện kiểm sát cùng cấp.
Trường hợp Hội đồng xét xử nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử xem xét ra quyết định áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời; trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Hội đồng xét xử thông báo, nêu rõ lý do cho người yêu cầu và ghi vào biên bản phiên tòa.
4. Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 66 của Luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu, Viện kiểm sát cùng cấp.”

Khi tham gia tố tụng vụ án hành chính. Các đương sự có thể sử dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của luật này, khi thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng không thể khắc phục được. Đương sự có thể yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn những hậu quả có thể xẩy ra đối với đương sự. Điều kiện, biện pháp, thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Điều: 66, Điều 68, Điều 70 của Luật này.

5. Điều kiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

5.1. Điều kiện khách quan

– Các điều kiện khách quan chung

Điều 111 BLTTDS 2015 quy định:

1. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.

2. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó”.

Như vậy, điều kiện áp dụng BPKCTT chủ yếu được xác định dựa trên hai yếu tố: Quyền, lợi ích đang hoặc có khả năng bị xâm hại; và tính khẩn cấp của hoàn cảnh.

– Các điều kiện khách quan riêng

Bên cạnh các điều kiện khách quan chung còn có các điều kiện khách quan riêng, được áp dụng cho từng BPKCTT cụ thể. Các điều kiện này có thể về đặc tính tài sản (tài sản đang tranh chấp, tài sản của người có nghĩa vụ, hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ…) hoặc về tác động tiêu cực (hành vi hủy hoại tài sản, hành vi tẩu tán tài sản, hành vi thay đổi hiện trạng tài sản…), hoặc các yếu tố khác đối với trường hợp cụ thể áp dụng BPKCTT.

Việc đặt ra các điều kiện này nhằm tiếp tục phân loại yêu cầu để đảm bảo việc áp dụng một BPKCTT cụ thể là phù hợp và đạt hiệu quả mong muốn. Tuy nhiên, các điều kiện này cũng thu hẹp phạm vi áp dụng của biện pháp, hạn chế khả năng lựa chọn BPKCTT của các bên đương sự.

Thứ nhất, nếu chỉ áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp (trong các điều 120, 121, 122 BLTTDS 2015) sẽ hạn chế khả năng áp dụng với tài sản không tranh chấp để bảo vệ chứng cứ hoặc đảm bảo thi hành án của các biện pháp này. Trên thực tế, việc áp dụng BPKCTT đối với tài sản không phải là tài sản tranh chấp nhưng có liên quan đến vụ án đang giải quyết như cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản của người có nghĩa vụ để đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ… là rất cần thiết.

Thứ hai, nếu chỉ áp dụng BPKCTT kê biên, cấm chuyển dịch quyền tài sản, cấm thay đổi hiện trạng tài sản khi “có căn cứ cho thấy” có hành vi vi phạm đã làm giảm hiệu quả áp dụng của biện pháp này.

Để đáp ứng được điều kiện này, người yêu cầu phải chứng minh rằng người giữ tài sản có ý định tẩu tán, hủy hoại tài sản và đang hiện thực hóa ý định đó. Trong nhiều trường hợp, kể từ thời điểm có căn cứ cho thấy có hành vi vi phạm đến thời điểm hành vi đó thực sự diễn ra có thể chỉ vài giờ (với hành vi hủy hoại tài sản) hoặc vài phút (với hành vi bán tài sản là động sản). Khả năng xảy ra thiệt hại khi đó là rất lớn và thời điểm có thể xảy ra hành vi vi phạm là rất gần. Do đó, đến khi chứng minh được căn cứ về hành vi vi phạm thì gần như đã không còn khả năng ngăn chặn hành vi đó nữa. Vậy, cần thay đổi quy định theo hướng cho phép áp dụng BPKCTT khi có căn cứ cần ngăn chặn hành vi vi phạm để đảm bảo tính kịp thời của việc áp dụng.

5.2. Điều kiện chủ quan

Việc áp dụng BPKCTT luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại đến quyền lợi đối với các chủ thể khác. Trong trường hợp có thiệt hại xảy ra do việc yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng, bên có yêu cầu phải chịu trách nhiệm bồi thường. Để đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ đó, trong một số trường hợp, bên yêu cầu sẽ phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng một khoản tiền hoặc các loại tài sản khác có giá trị do tòa án ấn định. Đây là điều kiện mang tính chủ quan bởi việc có đáp ứng điều kiện này hay không hoàn toàn phụ thuộc vào bên yêu cầu.

Điều 136 BLTTDS 2015 quy định:

“Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 của Bộ luật này phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu”.