Tự chứng nhận xuất xứ là cơ chế cho phép nhà xuất khẩu (một số FTA cho phép cả nhà sản xuất và nhà nhập khẩu) được tự chứng nhận xuất xứ cho sản phẩm của mình mà không phải đi xin chứng nhận xuất xứ từ một cơ quan có thẩm quyền cấp chứng nhận xuất xứ. Theo cơ chế này, trách nhiệm chứng nhận nguồn gốc xuất xứ hàng hóa sẽ chuyển từ cơ quan chuyên trách sang doanh nghiệp (nhà sản xuất, xuất khẩu hoặc nhập khẩu). Doanh nghiệp được chủ động khai nhận xuất xứ cho hàng hóa của mình nhưng cũng đồng thời phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc khai nhận đó.
I) Cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong ASEAN
Hàng hóa chỉ được hưởng ưu đãi thuế quan theo ATIGA nếu có xuất xứ từ khu vực ASEAN. Một hàng hóa được coi là có xuất xứ ASEAN nếu:
1) Hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ trong khu vực ASEAN, hoặc
2) Hàng hóa đáp ứng được các yêu cầu cụ thể về quy tắc xuất xứ trong Hiệp định (Phụ lục 3 – Quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng). Có ba loại quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng:
+ Hàng hóa phải có hàm lượng nguyên liệu nội khối (RVC) ít nhất là 40%, hoặc
+ Hàng hóa phải trải qua chuyển đổi HS 4 số, hoặc Hàng hóa phải trải qua một quy trình sản xuất nhất định. Các quy tắc này được áp dụng riêng hoặc kết hợp. Đa số các sản phẩm có quy tắc xuất xứ kết hợp, cho phép áp dụng đồng thời cả RVC và Chuyển đổi HS/Quy trình sản xuất.
Tự chứng nhận xuất xứ là việc nhà sản xuất, nhà XK hoặc nhà NK hàng hóa tự khai báo xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu/nhập khẩu trên hóa đơn thương mại hoặc bất kỳ chứng từ thương mại nào khác thay cho giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa do tổ chức được chính phủ của nước xuất khẩu ủy quyền cấp.
Cơ chế tự chứng nhận xuất xứ có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là; chuyển trách nhiệm xác định xuất xứ từ cơ quan có thẩm quyền sang doanh nghiệp.
Hai là, giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) được thay thế bởi chứng từ xuất xứ cụ thể (self certified ROO documents).
Theo lộ trình của ASEAN, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa dự kiến sẽ được áp dụng song song với hệ thống thông thường như hiện nay.
ASEAN hiện đang thực hiện 02 dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA). Việt Nam tham gia dự án thí điểm số 2. Điểm khác biệt cơ bản trong 02 dự án này là lựa chọn Nhà xuất khẩu đủ điều kiện được xem xét, cho phép tự chứng nhận xuất xứ. Cụ thể:
– Dự án thí điểm số 1:Kí ngày 30/8/2010 bởi ba nước Brunei, Malaysia và Singapore, bắt đầu thực hiện từ ngày 1/11/2010. Thái Lan tham gia vào tháng 10/2011. Cho phép các Nhà xuất khẩu (gồm các công ty thương mại và Nhà sản xuất) đủ điều kiện được xem xét, cho phép tự chứng nhận xuất xứ; cho phép TCNXX trên bất kỳ chứng từ thương mại nào, bao gồm hóa đơn, vận đơn, phiếu đóng gói.
– Dự án thí điểm số 2: Kí ngày 29/8/2012 bởi ba nước Lào, Indonesia và Philippines, bắt đầu thực hiện từ ngày 1/1/2014. Việt Nam tham gia vào tháng 9/2014. Chỉ cho phép các Nhà xuất khẩu đồng thời là Nhà sản xuất đủ điều kiện được xem xét, cho phép tự chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa do chính họ sản xuất ra; cho phép TCNXX trên hóa đơn thương mại gốc của hàng hóa.
Các điều kiện khác để được xét là Nhà xuất khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ do các Nước thành viên ASEAN quy định theo nội luật của từng nước, thiếu tính tương đồng, không thống nhất. Để thực hiện tốt tự chứng nhận xuất xứ, các nước ASEAN phát triển hơn, như Thái Lan có cơ chế quản lý rủi ro hiệu quả và chế tài xử phạt rất nặng đối với các hành vi gian lận thương mại nói chung và trong lĩnh vực xuất xứ hàng hóa nói chung. Thái Lan đồng thời tham gia cả 2 Dự án thí điểm số 1 và số 2.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp trong khối, nhất là doanh nghiệp Việt Nam chưa mặn mà với cơ chế tự chứng nhận xuất xứ do Hải quan các nước nhập khẩu thường đặt nhiều nghi vấn đối với các lô hàng tự chứng nhận xuất xứ hơn hẳn so với các lô hàng được cấp C/O truyền thống. Ví dụ: thời gian đầu thực hiện thí điểm tự chứng nhận xuất xứ, Hải quan Thái Lan tiến hành xác minh với toàn bộ các lô hàng nhập khẩu sử dụng hóa đơn tự chứng nhận xuất xứ.
II) Ưu điểm và hạn chế của hình thức tự chứng nhận xuất xứ so với cấp chứng nhận xuất xứ ASEAN
1. Ưu điểm
Cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa có nhiều lợi ích.
Thứ nhất, là nhà sản xuất có thể cung cấp chứng từ về xuất xứ hàng hóa ngay cho nhà NK mà không phải mất thời gian chờ đợi cơ quan thẩm quyền xét duyệt như thông thường.
Thứ hai, sẽ đơn giản hóa thủ tục, giảm chi phí giao dịch khác.
Thứ ba, do nắm rõ sản phẩm nên nhà sản xuất sẽ làm tăng đáng kể tỷ lệ sử dụng C/O theo các FTA để từ đó hưởng ưu đãi về thuế.
Thứ tư, do không phải tuân theo biểu mẫu nhất định nên có thể tránh được các lỗi sai sót chính tả thường gặp.
Về cơ quan quản lý Nhà nước, sẽ tiết kiệm nhân, vật lực, tiết kiệm được chi phí quản lý vận hành… và khi phát hiện gian lận trong xuất xứ hàng hóa thì chỉ việc truy cứu trách nhiệm (có thể quy vào hình sự) hoặc rút giấy phép hoạt động của nhà xuất NK và truy thu theo quy định.
2. Hạn chế
Tuy nhiên cơ chế này cũng có không ít thách thức. Đó là những rủi ro phát sinh khả năng gian lận thương mại về xuất xứ các trường hợp hàng quá cảnh qua Việt Nam, nhập nguyên vật liệu kể cả bán thành phẩm, thành phẩm về gia công đơn giản rồi đóng gói dưới xuất xứ Việt Nam để hưởng ưu đãi thuế suất. Nguy cơ này có cả ở hàng NK và XK. Khi xảy ra trường hợp như vậy, uy tín doanh nghiệp bị ảnh hưởng, mất thị trường XK và bị truy cứu trách nhiệm tùy mức độ. Còn ở tầm vĩ mô, uy tín ngành hàng cũng bị soi xét trên thương trường quốc tế, mất khả năng cạnh tranh. Ngoài ra là những thách thức cơ bản như: Tăng nhập siêu từ các nước đối tác FTA; Sự hiểu biết của một số doanh nghiệp về quy tắc xuất xứ cũng như ý thức tự giác còn hạn chế.
Đọc thêm: So sánh RCEP và ATIGA về thuế quan
III) Hệ thống tự chứng nhận xuất xứ hiện tại của Việt Nam
Cơ chế truyền thống yêu cầu Bộ Công Thương phải phát hành chứng nhận xuất xứ khi nhà xuất khẩu đăng ký (Xem Phụ lục A). Với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), ASEAN đã nhận ra vai trò quan trọng của quy tắc xuất xứ trong việc biến mong muốn hàng hóa được lưu thông tự do trong khu vực thành hiện thực. Để đạt được điều này, ASEAN thống nhất đặt ra các quy tắc xuất xứ đáp ứng được các thay đổi liên tục trong quy trình sản xuất toàn cầu, nhằm: thuận lợi hóa thương mại và đầu tư trong khu vực; xúc tiến mạng lưới sản xuất khu vực và khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhận ra nhu cầu cần hợp lý hóa quy tắc xuất xứ để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hàng hóa xuất xứ ASEAN, Hội đồng AFTA lần thứ 23 tại Bangkok vào tháng 8 năm 2009 đã thông qua “Kế hoạch làm việc hướng tới hiện thực hóa hoạt động tự chứng nhận xuất xứ”. Theo Kế hoạch làm việc này, tất cả các quốc gia thành viên sẽ thực thi cơ chế Tự chứng nhận xuất xứ ASEAN vào năm 2012. Ngày 1 tháng 11 năm 2012, ba quốc gia thành viên tham gia là Brunei, Malaysia và Singapore đã bắt đầu tiến hành một dự án thí điểm một năm nhằm khởi động Cơ chế tự chứng nhận xuất xứ ASEAN. Tháng 10 năm 2011, Thái Lan đã tham gia vào dự án này. Philippines, Indonesia và Lào đã ký Biên bản ghi nhớ nhằm thực thi dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ lần 2 vào tháng 8 năm 2012 với một số sửa đổi so với dự án thí điểm ban đầu (ví dụ như hạn chế chỉ các “nhà sản xuất” có thể chỉ định tối đa ba chữ ký ủy quyền dành riêng cho các khai báo trên hóa đơn và chia sẻ tên của những người này cho Thư ký ASEAN). Việt Nam đã tham gia vào dự án thí điểm thứ hai và đã ban hành Thông tư 28/2015/TT-Bộ Công Thương ngày 20 tháng 8 năm 2015 để đáp ứng các yêu cầu của dự án này.
Trên đây là tư vấn của Luật Bạch Long . Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:
Công ty Luật TNHH Bạch Long
Địa chỉ: Số 92 Phố Dương Quảng Hàm, Phường Quan Hoa, Quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0962.342.089 – 0975.866.929
Email: luatbachlong@gmail.com
Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0975.866.929 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.