Giám đốc thẩm có vai trò rất quan trọng trong tố tụng dân sự, góp phần bảo vệ lợi ích công dân, thực thi pháp luật, bảo vệ công lý. Trong bài viết này, Luật Bạch Long xin đưa ra một số phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về kháng nghị giám đốc thẩm. Bài viết sẽ chia làm ba phần để các bạn có thể tìm hiểu từ căn bản cho tới thực tế.
ĐỌC THÊM:
Bình luận quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự về kháng nghị giám đốc thẩm (p1)
Tái thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự
Bình luận quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự về kháng nghị giám đốc thẩm (p3)
a. Tính chất của giám đốc thẩm ( Đ325)
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt, chỉ được tiến hành khi có kháng nghị giám đốc thẩm. Đó là đặc điểm khác biệt so với các thủ tục xét xử thông thường như sơ thẩm (đương nhiên được thực hiện khi có khởi kiện hợp pháp của đương sự), phúc thẩm (đương nhiên được thực hiện khi có kháng cáo hợp pháp của đương sự hoặc các kháng nghị của Viện kiểm sát). Các Thẩm phán không tham gia trực tiếp giám đốc thẩm cũng có thể tham gia vào trình tự giám đốc công tác xét xử bằng việc phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho những người có quyền kháng nghị giám đốc thẩm.
b. Căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (Điều 326)
* Căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm
Thông thường, những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án có nguồn gốc từ chính sự nhận thức, đánh giá không đúng về sự việc hoặc về pháp luật do sự ngộ nhận hoặc thiếu cẩn trọng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đối với chứng cứ, tài liệu của vụ việc hoặc đối với các quy định của pháp luật về nội dung, về tố tụng dân sự. Ngoài ra, sai lầm về sự việc của Tòa án có thể do yếu tố ngoại cảnh tác động (đương sự hoặc Tòa án không biết được) như thiếu những tình tiết, sự kiện cần thiết hoặc các tình tiết, sự kiện mà Tòa án dựa vào đó để giải quyết vụ việc đã bị giả mạo, được kết luận không đúng.
Quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm tại khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015 về cơ bản vẫn dựa trên cơ sở các quy định của Điều 283 BLTTDS 2004 nhưng có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Theo đó, các quy định về căn cứ giám đốc thẩm được dựa trên căn cứ phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng của Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự dẫn tới hậu quả là quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật; gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Bản chất của thủ tục giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị do pháp hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết. Những sai lầm, thiếu sót của Tòa án khi giải quyết vụ việc có thể ở hai dạng cơ bản là sai lầm về các tình tiết, sự kiện của vụ việc hoặc sai lầm nghiêm trọng khi áp dụng pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và pháp luật tố tụng dân sự. So sánh các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm tại Điều 283 BLTTDS 2004 và khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015 cho thấy đã có sự thay đổi căn bản về tư duy lập pháp. Nhà lập pháp hiện nay đã nhận thấy rõ hơn được những hậu quả nặng nề của việc hủy án để bắt đầu lại một quy trình mới nên đã chú trọng hơn tới việc bảo đảm tính hiệu quả của thủ tục tố tụng. Do vậy, căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015 không chỉ đơn thuần dựa trên những sai lầm, vi phạm của Tòa án trước đây mà còn dựa trên hậu quả tiêu cực của sai lầm, vi phạm làm tổn hại tới quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể. Theo quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015 thì bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khí có một trong những căn cứ sau đây:
– Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
– Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
– Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Căn cứ “Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự” là trường hợp Tòa án nhận định không đúng về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự hay còn gọi là sai lầm về vụ việc dẫn tới gây thiệt hại về quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. BLTTDS 2015 không có giải thích như thế nào là “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật” cũng như không có giải thích về trường hợp “có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba” như thế nào là được coi là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong thực tiễn tố tụng tại Tòa án thì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thường được hiểu là việc vi phạm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, vi phạm về thẩm quyền của Tòa án, về thành phần hội đồng xét xử, xác định sai tư cách hoặc bỏ sót đương sự… Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật là Tòa án đã áp dụng sai các quy định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động dẫn đến việc quyết định không đúng về quyền, lợi ích của họ. Do vậy, việc hướng dẫn cụ thể các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo Điều luật trên là cần thiết nhằm bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật của các Tòa án được thống nhất.
* Điều kiện để kháng nghị giám đốc thẩm.
Nhằm đảm bảo hơn tính hiệu quả của thủ tục tố tụng và tôn trọng quyền định đoạt của đương sự, nhà làm lập pháp đã thiết lập thêm tại khoản 2 Điều 326 BLTTDS 2015 quy định điều kiện kháng nghị giám đốc thẩm. Theo đó, người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật tiến hành kháng nghị khi hội đủ hai điều kiện là có một trong các căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều luật này và có đơn đề nghị của đương sự về việc xem xét lại bản án, quyết định hoặc có thông báo của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân về việc vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định, có kiến nghị của Chánh án Tòa án cấp tỉnh, Chánh án Tòa án cấp cao về việc xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong trường hợp xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm có thể tiến hành kháng nghị mà không cần phải có đơn đề nghị của đương sự.
c. Đối tượng kháng nghị
Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dân sự là những bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự đã có hiệu lực pháp luật đã phát hiện thấy sự sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự. Bản án, quyết định này bao gồm:
- Bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
- Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
- Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm
- Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án.
Về nguyên tắc những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì sẽ được đưa ra thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Tuy nhiên trong một số trường hợp mặc dù bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng lại không đúng với bản chất vụ việc của pháp luật. Trong trường hợp này nếu đưa bản án, quyết định đó ra thi hành thì sẽ gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Do vậy nếu bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện không đúng với bản chất sự việc hay có những vi phạm, sai lầm nghiêm trọng về pháp luật gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của đương sự thì cần đặt ra thủ tục xét lại bản án, quyết định đó và điều này là hoàn toàn hợp lý.
d. Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Để tránh việc kháng nghị tràn lan, làm mất tính ổn định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cũng như đề cao vai trò trách nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát thì chỉ có những người có thẩm quyền nhất định mới có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Đương sự và những người khác có thẩm quyền khiếu nại, tố cáo hoặc thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị về những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án đã giải quyết vụ án đó. Cũng căn cứ vào điều 331 BLTTDS 2015 quy định về người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:
– Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
– Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Bài viết phần 2 này chúng ta đã tìm hiểu được một phần các quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự về kháng nghị giám đốc thẩm. Trong phần 3 tiếp theo của Luật Bạch Long sẽ đi tới phân tích những quy định khác và thực tế, xin mời các bạn theo dõi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ để được giải đáp:
Công ty Luật TNHH Bạch Long
Địa chỉ: số 92 Dương Quảng Hàm, Phường Quan Hoa, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: 0975.866.929
Email: luatbachlong@gmail.com
Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0975.866.929 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác!